tìm hiểu về nền giáo dục mỹ

Chương trình giáo dục phổ thông 2018, giáo dục chú trọng phát triển kỹ năng, hài hòa "đức, trí, thể, mỹ". Dường như các trường đều trăn trở và hướng tới việc xây dựng trường học hạnh Nội dung: - GV yêu cầu HS trả lời câu hỏi ở hoạt động tìm hiểu một số hình thức logo. - HS thảo luận và trả lời câu hỏi trong SGK Mĩ thuật 7. c. Sản phẩm học tập: Sản phẩm mĩ thuật của HS. d. Tổ chức thực hiện: - Tổ chức cho HS quan sát hình ảnh để nhận biết Giáo trình sát với năng lực và thay đổi tùy theo khả năng học viên. Với phương châm: Kèm cặp - Cơ bản - Dễ Hiểu. Dạy học dựa trên sự bài bản và tận tâm. ArtLand mang đến những hương trình phù hợp với tất cả các bạn học sinh, sinh viên và người có đam mê chuyên Vay 5s Online. Hoa Kỳ luôn được coi là “thiên đường” của giáo dục quốc tế, là quốc gia có nền giáo dục đứng đầu thế giới và là nơi tọa lạc của nhiều trường đại học danh tiếng. Trước khi thực hiện hóa giấc mơ du học Mỹ của mình, các bạn hãy tìm hiểu thông tin về hệ thống giáo dục Mỹ để tìm cho mình lộ trình học tập tốt nhất nhé. Tổng quan về hệ thống giáo dục Mỹ Hệ thống giáo dục Mỹ được chia thành nhiều chương trình học. Cụ thể như sau Chương trình tiểu học và trung học Chương trình phổ thông Mỹ kéo dài trong vòng 12 năm, tùy thuộc vào cách phân chia trường của từng khu vực, từng bang, thông thường là Bậc Tiểu học kéo dài từ 5 - 6 năm, học sinh Mỹ bắt đầu vào học tiểu học khi được 6 tuổi. Bậc Trung học gồm 2 chương trình trung học cơ sở, trung học. Sau khi tốt nghiệp trung học, học sinh có thể học lên Đại học/Cao đẳng hay còn gọi là giáo dục bậc cao. Chính phủ Hoa Kỳ giao quyền tự quản về giáo dục cho các bang. Do đó, nền giáo dục không có chương trình phổ thông chuẩn quốc gia, tuy nhiên, chất lượng đào tạo tại các bang khác nhau của Mỹ khá đồng đều và được các bang công nhận. Ở bậc phổ thông, chương trình và phương pháp đào tại Mỹ tuy có khác Việt Nam, nhưng về cơ bản vẫn là đào tạo các kiến thức về khoa học và xã hội cơ bản như toán, lý, hóa, văn học, sử, địa, khoa học… Bậc cao đẳng của hệ thống giáo dục Mỹ Các trường Cao đẳng của Mỹ đào tạo đa ngành và các chương trình nghề, cụ thể Chứng chỉ nghề 3 - 6 - 9 tháng Bằng cao đẳng nghề 1 - 2 năm Bằng cao đẳng nâng cao 1- 2 năm Bằng cao đẳng chuyển tiếp lên đại học 2 năm Hệ thống giáo dục Mỹ bậc cao đẳng có 2 loại trường Community College Trường cao đẳng công lập do nhà nước tài trợ về tài chính, do đó, chi phí học tập khá rẻ, dao động khoảng - USD/năm. Yêu cầu đầu vào của trường Cao đẳng thấp hơn so với các trường Đại học. Nhiều trường chấp nhận học sinh học hết lớp 11 tại Việt Nam. College Trường cao đẳng tư thục với mức học phí dao động - USD/năm tùy trường và tùy chuyên ngành học của học sinh. Hệ thống giáo dục Mỹ bậc Đại học Chương trình cử nhân là chương trình đầu tiên trong hệ thống giáo dục bậc cao ở Mỹ. Sinh viên sẽ mất khoảng 4 năm học để lấy bằng. Trong 2 năm học đầu tiên, bạn sẽ được học nhiều khóa cơ bản, nhằm tích lũy các kiến thức chung. Sau đó, sinh viên sẽ được chuyển sang học các môn chuyên ngành. Lưu ý, sinh viên cũng có thể hoàn thành chương trình 2 năm đầu tại Cao đẳng cộng đồng trước khi chuyển tiếp lên chương trình Đại học. Sau đó sinh viên tiếp tục học thêm 2 năm để tốt nghiệp. Đặc biệt, học viên có thể thay đổi ngành học bất cứ khi nào. Tuy nhiên, việc này đồng nghĩa với việc bạn phải đăng ký học nhiều môn hơn, tốn nhiều thời gian và chi phí hơn. Hệ thống giáo dục Mỹ bậc Đại học chia thành 6 loại chính, bao gồm Trường công lập Trường tư lập Trường Cao đẳng cộng đồng Trường chuyên nghiệp Viện công nghệ Trường của nhà thờ Chương trình sau Đại học - Thạc sĩ Điều kiện chương trình học thạc sĩ là sinh viên phải tốt nghiệp đại học và có mong muốn học lên cao hơn. Đây là chương trình học cần thiết nếu bạn muốn làm những công việc liên quan đến vấn đề nghiên cứu chuyên sâu. Lưu ý, chương trình cao học thường do các phòng ban của trường đại học quản lý riêng. Tất nhiên, điều kiện theo học chương trình cũng tương đối khắt khe - sinh viên phải đạt các bài kiểm tra đầu vào như LSAT, GRE, GMAT, MCAT. Mỗi ngành học, mỗi trường lại có những yêu cầu khác nhau. Do đó, học viên cần phải tìm hiểu và đáp ứng các yêu cầu trên nếu có dự định du học Mỹ. Thời gian đào tạo của chương trình thạc sĩ tại Mỹ là từ 1 - 2 năm. Trong thời gian này, bạn phải hoàn thành bài luận hoặc dự án thạc sĩ để có thể lấy bằng. Đặc biệt, bằng cấp thạc sĩ được cấp tại hệ thống giáo dục Mỹ sẽ được công nhận trên toàn thế giới. Chương trình Tiến sĩ Thông thường, để được học chương trình tiến sĩ, học viên phải hoàn thành chương trình thạc sĩ. Tuy nhiên, sinh viên tại Hoa Kỳ có thể học thẳng lên chương trình tiến sĩ mà bỏ qua chương trình thạc sĩ. Thời gian đào tạo của chương trình tiến sĩ tại Mỹ sẽ kéo dài khoảng 3 năm. Một số du học sinh dành đến 5 - 6 năm để hoàn thành việc học của mình. Hầu hết du học sinh đều có học bổng từ nhà nước hoặc trường học. Điểm khác biệt giữa hệ thống giáo dục Mỹ - Việt Nam Có thể thấy, hệ thống giáo dục tại Mỹ và Việt Nam có những điểm khác biệt nhất định. ApplyZones sẽ liệt kê, so sánh dựa trên các tiêu chí như sau Thời gian giữa các bậc học Tại Hoa Kỳ, thời gian học ở các bậc học là Tiểu học 5 năm; THCS 3 năm; THPT 4 năm; Cao đẳng cộng đồng 2 năm; Đại học 4 năm; Thạc sĩ 2 năm; Tiến sĩ ít nhất 4 năm. Trong khi đó, thời gian học ở Việt Nam là Tiểu học 5 năm; THCS 4 năm; Trung học phổ thông 3 năm; Cao đẳng 3 năm; Đại học 4 – 6 năm; Thạc sĩ 2 năm. Chương trình đào tạo Chương trình học ở Mỹ khuyến khích học sinh, sinh viên tư duy, phát triển cá nhân. Người học sẽ là người chủ động tham gia vào quá trình học tập, giảng viên chỉ hướng dẫn. Còn ở Việt Nam, chương trình đào tạo được đánh giá khá áp lực với lượng kiến thức khổng lồ, mang tính lý thuyết. Người học thường bị rập khuôn máy móc, hơn là sáng tạo. Thành tích học tập tuy cao nhưng lại không có tính ứng dụng thực tế. Người học bị động theo lối thầy giảng trò nghe. Chất lượng cơ sở vật chất phục vụ giáo dục Hoa Kỳ đầu tư mạnh tay cho hệ thống vật chất giáo dục với trang thiết bị, công nghệ hiện tại, tiên tiến. Tất cả đều phục vụ cho nhu cầu vừa học vừa thực hành của học sinh, sinh viên. Trong khi đó, cơ sở vật chất tại Việt Nam chỉ dừng lại ở mức trung bình. Hầu hết các trường đều thiếu thiết bị thực hành hỗ trợ, người học chủ yếu học lý thuyết, sách vở. Chi phí học tập Tại Mỹ, bậc học từ Trung học trở xuống được miễn phí toàn bộ. Tuy nhiên, chi phí học các bậc Đại học, Cao đẳng, Thạc sĩ lại tương đối cao. Trong khi đó, chi phí học tập tại Việt Nam tương đối thấp. Tuy nhiên, nếu tính tổng chi phí trong suốt quá trình lại khá cao, có khá nhiều khoản phát sinh. Khác biệt về mục tiêu giáo dục Giáo dục của Mỹ hướng tới sự phát triển toàn diện của học sinh, đặc biệt chú trọng đến sự sáng tạo, tính cá nhân. Tương tự Mỹ, mục tiêu giáo dục của Việt Nam cũng hướng đến sự phát triển toàn diện cho người học. Tuy nhiên, giáo dục nước ta có thiên hướng phát triển kiến thức, chú trọng vào điểm số và thành tích hơn là sự sáng tạo cá nhân. Khác biệt rõ rệt về giá trị bằng cấp Bằng cấp tại Mỹ có giá trị, chứng nhận trên phạm vi toàn thế giới. Còn ở Việt Nam, bằng cấp chỉ được công nhận ở phạm vi trong nước. Cơ hội việc làm sau khi tốt nghiệp Tại Mỹ, sau khi tốt nghiệp, sinh viên có cơ hội việc làm rộng mở với mức lương cao. Đặc biệt, nếu tốt nghiệp từ các trường Đại học danh tiếng, cơ hội việc làm và thu nhập còn lớn hơn rất nhiều. Tại Việt Nam, sinh viên sau khi tốt nghiệp thường phải học thêm các khóa nghiệp vụ, sinh viên thường không thể tự đảm nhận công việc mà cần phải có thêm người hướng dẫn trong 1 thời gian. Với những ưu điểm tuyệt vời kể trên, du học Mỹ luôn trở thành “vùng đất hứa” với nhiều học sinh, sinh viên Việt Nam. Hãy liên hệ với ApplyZones để được tư vấn thêm về hệ thống giáo dục Mỹ cũng như các hỗ trợ đi kèm, giúp biến ước mơ của bạn trở thành hiện thực nhé! Xếp hạng 4 bình chọn “Truyền thống, nguyên tắc và toàn diện” là một trong số những cụm từ ta nghe thấy nhiều nhất khi nhắc về nền giáo dục của châu phủ nhận nền giáo dục của các quốc gia châu Á vẫn còn một số hạn chế, thế nhưng tính phổ cập, bao quát và chuyên sâu quả thực là những thế mạnh vượt trội giúp cho chương trình giáo dục ở nơi đây sánh ngang với hệ thống giáo dục tiên tiến và hiện đại ở các nước phương Tây. Những quốc gia được đề cập sau đây là minh chứng rất tiêu biểu cho chất lượng giáo dục của các quốc gia tại khu vực châu Bản Nhật Bản được biết đến không chỉ là một nước hùng mạnh về kinh tế vào hàng đầu thế giới mà còn được coi là quốc gia có hệ thống giáo dục rất đa dạng và chất thống giáo dục của Nhật Bản được đánh giá đứng thứ 3 thế giới sau Mỹ và Anh. Nền giáo dục của Nhật Bản kết hợp hài hòa giữa bản sắc văn hóa lâu đời phương Đông với những tri thức phương Tây hiện đại. Ở Nhật Bản gần như không có người mù chữ và hơn 72,5% số học sinh theo học lên đến bậc đại học, cao đẳng và trung cấp, một con số ngang hàng với Mỹ và vượt trội một số quốc gia châu Âu. Điều này đã tạo cơ sở cho sự phát triển kinh tế và công nghiệp Nhật Bản trong thời kỳ hiện đại. Giáo dục Nhật là nơi có tính cạnh tranh rất cao, đặc biệt ở các kỳ thi tuyển sinh đại học, điển hình là các kỳ thi tuyển của hai trường đại học cao cấp Tokyo và Kyoto. Người Nhật Bản luôn coi trọng đến bằng cấp. Chương trình đánh giá sinh viên của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD hiện xếp Nhật Bản ở vị trí thứ 6 thế giới về kĩ năng và kiến thức của học sinh 16 tuổi. Nhật Bản là một trong những đất nước có chất lượng học tập và chất lượng giảng dạy tốt nhất thế giới, thành tích và năng lực của sinh viên các trường khác nhau không chênh lệch nhiều, hầu hết sinh viên đều nắm rõ và làm chủ chương trình học tập. Chính phủ Nhật đang định hướng phương pháp giảng dạy hiệu quả, phù hợp nhất cho các giáo viên, giảng viên. Nhật Bản đang cố gắng từng bước để tiêu chuẩn hóa trình độ giáo viên. Người dân Nhật rất không thích áp dụng phương pháp giảng dạy của nước ngoài mà muốn đưa ra phương pháp của chính mình nhằm phù hợp nhất với lịch sử, văn hóa, kinh tế, xã hội, lối sống, con người Nhật Bản. Điều này đã tạo ra một nền giáo dục mang đặc trưng riêng của đất nước mặt trời mọc. Hiện nay, Chính phủ Nhật Bản đang tiếp tục đầu tư cho giáo dục nhằm đưa Nhật Bản trở thành nước có hệ thống giáo dục phát triển nhất thế giới, tạo ra môi trường học tập lý tưởng nhất cho sinh viên Nhật và sinh viên nước ngoài. Hàn Quốc Hàn Quốc nằm trên bán đảo Triều Tiên thuộc khu vực Đông Bắc của lục địa Châu Á. Khí hậu Hàn Quốc được chia thành 4 mùa rõ rệt Mùa Xuân và mùa Thu khá ngắn, mùa Hè nóng và ẩm ướt, mùa đông lạnh, khô và có tuyết rơi. Ngay từ xa xưa Hàn Quốc đã luôn coi giáo dục là mục đích lớn nhất trong việc đào tạo nhân tài. Không những thế, Hàn Quốc còn là một đất nước có thiên nhiên tươi đẹp, người dân thân thiện, một đất nước phát triển về văn hóa, khoa học và nghệ thuật. Sống, học tập và làm việc tại Hàn Quốc là một cơ hội tốt để bạn trau dồi kinh nghiệm trong học tập và làm việc với các điều kiện không thua kém các nước châu Âu. Học tập tại Hàn Quốc khiến bạn trở thành con người độc lập, chủ động, có khả năng làm việc trong nhiều điều kiện ngay cả với những áp lực lớn. Chính những điều này mà Hàn Quốc đã thu hút được rất nhiều sinh viên từ các nước châu Âu, châu Mỹ và châu Á đến học tập. Ưu điểm khi du học Hàn QuốcNền giáo dục tiên tiến, chất lượng cao nhưng chi phí thấp hơn các nước tiên tiến khác trong khu vực như Nhật Bản, Singapore, …Có nhiều ngành nghề để lựa chọn với hệ đào tạo từ Cao đẳng, Đại học đến Tiến viên có cơ hội làm thêm với thu nhập từ 800 - USD/tháng để đảm bảo chi phí học tập, sinh hoạt tại Hàn hội được làm việc cho các Công ty, tập đoàn lớn của Hàn Quốc tại Việc Nam sau khi tốt trình đào tạo bằng tiếng Hàn Quốc hoặc tiếng Anh. Thái Lan Thái Lan hiện có 109 trường quốc tế và các trường này luôn được Chính phủ hỗ trợ trong việc nâng cao chất lượng đào tạo để thu hút được sinh viên. Cùng với một hệ thống đánh giá chất lượng của các trường quốc tế tại Thái Lan QAP, hiện nay, nhiều trường quốc tế đã có chất lượng tốt nhất, nhì trong khu vực châu Á. Dù các trường quốc tế tại Thái Lan không được Chính phủ trợ cấp về kinh phí, nhưng hệ thống giáo dục nước này cũng đã cố gắng tập trung thay đổi, tiêu biểu là sự xuất hiện của hệ thống các trường nội trú với mô hình giống như ở Mỹ, Anh... tại Bangkok và một số vùng khác thuộc Thái Lan. Vậy tại sao Thái Lan là điểm đến du học mới được quan tâm như vậy? Trước tiên là hệ thống giáo dục Thái Lan được đầu tư rất tốt. Ở bậc Cao đẳng, đại học trở lên… có nhiều trường tư quy mô quốc tế, đồng thời nhiều trường đại học công lập cũng có các khoa quốc tế/ liên kết, giảng dạy nhiều chuyên ngành, bằng các ngôn ngữ Anh, Thái Lan, Trung Quốc… Hầu hết các trường đều có nhiều kỳ nhập học trong năm. Từ năm thứ 2 trở đi, sinh viên quốc tế tại Thái Lan cũng dễ dàng chuyển tiếp sang học ở các nước khác như Anh, Úc, Mỹ… theo chương trình liên kết của trường. Điểm quan trọng thứ hai là chi phí hợp lý. Trong tình hình kinh tế suy thoái này, chi phí du học được các phụ huynh, học sinh cân nhắc kỹ. Du học Thái Lan có mức học phí thấp hơn nhiều so với các nước Âu Mỹ hoặc một số nước châu Á khác. Bên cạnh đó, chi phí sinh hoạt và đi lại cũng thấp. Sinh viên có thể dễ dàng về thăm nhà hoặc đi du lịch các nước lân cận. Một ưu thế nữa khi chọn du học ở Thái là sinh viên không cần phải chứng minh tài chính. Chính phủ Thái Lan bắt đầu quan tâm nhiều hơn đối với du học sinh Việt Nam cũng như các nước châu Á khác, khi ngày càng nhiều doanh nghiệp Thái mở rộng đầu tư vào khu vực. Chính phủ Thái cũng tăng lượng học bổng cho du học sinh Việt Nam, góp phần đáp ứng đáng kể nhu cầu tuyển dụng nhân sự có thể nói được cả tiếng Việt, tiếng Anh và hiểu chút ít tiếng Thái cho các tập đoàn kinh tế. Sau khi tốt nghiệp, sinh viên cũng dễ dàng có cơ hội xin visa làm việc tại Thái theo ngành mình học. Cuối cùng, sau khi học xong ở các trường quốc tế tại Thái Lan, sinh viên có thể học sau đại học ở các nước châu Âu, Mỹ, Australia… Malaysia Cũng như nhiều nước đang phát triển khác ở châu Á, cùng với những thành tựu vượt bậc về phát triển kinh tế, Malaysia đang có ý thức rất rõ về vai trò quan trọng của giáo dục đại học trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu và hết sức quan tâm đến việc xây dựng những trường đại học đạt đẳng cấp quốc tế. Nhà nước Malaysia, giới chức chính trị và lãnh đạo các trường đại học, cũng như công chúng Malaysia hết sức quan tâm đến kết quả xếp hạng đại học và coi đó như một minh chứng nghiêm túc cho vị thế quốc tế của họ. Malaysia đã có những bước tiến vượt bậc trong giáo dục đại học trong hai thập kỷ vừa qua. Số lượng sinh viên đại học tăng nhanh như tên lửa từ những năm 90. Năm 1985, tổng số sinh viên đại học chỉ là đến năm 1990 đã tăng lên tới và chạm đến con số năm 1999. Mức độ gia tăng số lượng mạnh nhất là ở khu vực đại học tư sinh viên năm 1985 lên đến năm 1990 và năm 1999. Tỉ lệ người từ 19-24 tuổi vào đại học đã tăng từ 2,9% đến 8,2% trong hai thập kỷ qua. Chính phủ đã hỗ trợ hơn 20% ngân quỹ dành cho lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Chính điều này đã giúp cho Malaysia thu hút được hơn sinh viên Quốc tế năm 2010. Khi đã đạt được sự phát triển nhảy vọt về số lượng, trong vòng mấy năm gần đây, Malaysia đã và đang tìm kiếm sự quân bình giữa đại chúng hóa giáo dục đại học với việc theo đuổi sự ưu tú trong chất lượng đào tạo và học thuật. Và như thế, Cơ quan kiểm tra chất lượng Quốc gia đối với giáo dục nâng cao LAN cùng với Quỹ dành cho giáo dục nâng cao PTPTN ra đời. Hệ thống giáo dục tại Malaysia hướng tới tính thống nhất giữa các dân tộc. Thông qua giáo dục, chính phủ mong muốn xây dựng một đất nước vững mạnh, thúc đẩy xã hội, phát triển kinh tế bền vững, phát triển tính cạnh tranh toàn cầu, phát triển nguồn nhân lực và môi trường bền vững. Singapore Singapore có 2 trường đại học công lập lọt vào top 100 trường đại học tốt nhất trên thế giới là Trường đại học Quốc gia Singapore xếp thứ 12 và Trường đại học Công nghệ Nanyang xếp thứ 61. Để vào được bảng top này không phải chỉ một vài năm mà là nỗ lực của một quá trình lâu dài. Phát triển giáo dục là một chiến lược mang tính dài hạn, mà để đạt được chất lượng toàn cầu có khi mất cả trăm năm. Một trường đại học được cả thế giới công nhận về “tính chuẩn” rõ ràng phải hội đủ các yếu tố như chất lượng giáo viên, hệ thống cơ sở vật chất, ngành học phù hợp nhu cầu xã hội, sinh viên tốt nghiệp có khả năng làm việc tốt ở các công ty. Ở mỗi giai đoạn, Singapore có một chiến lược phát triển giáo dục nhất định, nhưng giai đoạn nào thì cũng bám lấy tiêu chí nhu cầu của xã hội đối với đào tạo. Xã hội đang cần người làm công việc gì thì trường học đào tạo ngành nghề đó. Đáp ứng đúng nhu cầu của thị trường thì trường đó cũng sẽ tạo được thế mạnh cũng như thương hiệu cho riêng mình. Tại Singapore, sự đa dạng của khối trường tư thục với chương trình đào tạo phong phú đã làm cho bức tranh đào tạo của quốc gia thêm đa dạng. Hiện có khoảng hơn 300 trường tư thục chuyên ngành thương mại, công nghệ thông tin, nghệ thuật và ngôn ngữ ở Singapore. Số trường tư thục này cung cấp các khoá học đáp ứng theo nhu cầu của đông đảo học sinh trong nước và quốc tế. Các trường tư thục có nhiều khoá học lấy chứng chỉ, bằng cao đẳng, cử nhân, và bằng sau đại học. Thông qua việc liên kết với các trường nổi tiếng trên thế giới từ Mỹ, Anh, Úc các trường tư thục đã mang đến cho học sinh các cơ hội lấy các chứng chỉ và văn bằng quốc tế trong môi trường học với mức chi phí phải chăng. Mỗi trường đại học của Singapore, dù trường công hay trường tư, luôn có một trung tâm tư vấn việc làm và giúp đỡ sinh viên thực tập tại các công ty. Bản thân các trường đại học có sự gắn bó chặt chẽ với các doanh nghiệp, công ty liên quan đến ngành nghề đào tạo. Bên cạnh đó các trường thường xuyên có các hội thảo về việc làm để sinh viên tiếp cận dễ dàng hơn. Trung Quốc Theo thống kê của Bộ Giáo dục Trung Quốc, ngày càng có nhiều sinh viên nước ngoài đến đây học tập. Năm 2011, tại Trung Quốc có tới gần du học sinh nước ngoài. Việc tăng số lượng sinh viên nước ngoài bằng cách cung cấp nhiều học bổng, phát triển cơ sở vật chất, là một chiến lược có chủ đích của chính phủ, nhằm thúc đẩy sự hiểu biết về văn hóa, ngôn ngữ của Trung Quốc trên toàn cầu, và mở rộng "sức mạnh mềm" của Bắc Kinh. Trong hơn 50 năm qua, Chính phủ Trung Quốc vẫn tiếp tục phát huy truyền thống chú trọng phát triển giáo dục từ ngàn xưa. Mỗi năm, ngân sách tài chính được cấp cho ngành giáo dục chiếm đến gần 14% tổng chi tài chính nhà nước, tương đương gần 3% GDP. Hiện nay, kế hoạch 5 năm của Trung Quốc trong lĩnh vực giáo dục với mục đích nâng cao chất lượng tại các viện nghiên cứu, các đại học trong cả nước, để thu hút được khoảng sinh viên quốc tế vào năm 2020. Để phục vụ cho mục tiêu này, Trung Quốc đang nhanh chóng mở rộng việc dạy và học tiếng Quan Thoại và tiếng Anh. Chính phủ Trung Quốc cũng đã lên kế hoạch tài trợ học bổng cho sinh viên nước ngoài vào năm 2015. Hiện nay, Hàn Quốc là nước có nhiều sinh viên theo học tại Trung Quốc nhất, với hơn người, tiếp đến là Mỹ, Nhật Bản, Nga, Indonesia và Ấn Độ. Châu Âu cũng có gần sinh viên học tại Trung Quốc, dẫn đầu là Pháp với hơn sinh viên và Đức với khoảng người. Trung Quốc từ lâu được biết đến là một trong những nước có nền văn hoá đồ sộ và lâu đời nhất thế giới. Giờ đây, Trung Quốc lại được nhiều người biết đến như một nền kinh tế và kỹ thuật trên đà phát triển mạnh mẽ và một nền giáo dục và đào tạo chất lượng cao và thực sự thiết thực với tình hình phát triển kinh tế và xã hội của Việt Nam. Do đó, ngày càng nhiều học sinh – sinh viên Việt Nam đến du học tại Trung Quốc... Hiện nay, nền giáo dục châu Á đang không ngừng tiếp thu những thành tựu của những nền giáo dục danh tiếng trên thế giới. Việc làm này chắc chắn sẽ đem lại nhiều sự thay đổi tích cực, giải quyết những khúc mắc còn tồn đọng hiện tại, hướng tới một hệ thống giáo dục phát triển vững mạnh của châu Á trong tương lai. Sưu tầm và biên soạn Xếp hạng 4 bình chọn Bài viết liên quanTìm ngành học yêu thích Bài viết xem nhiềuBài viết mới nhất Giới thiệu về Hệ thống Giáo dục Mỹ Hệ thống giáo dục Mỹ có nhiều lựa chọn ngành học cho sinh viên quốc tế. Sự phong phú về trường, chương trình học và địa điểm mang đến cho sinh viên nhiều lựa chọn nhưng nhiều khi cũng sẽ khó quyết định, thậm chí đối với cả sinh viên Mỹ. Khi bắt đầu lựa chọn trường học, điều quan trọng là phải tìm hiểu kỹ hệ thống giáo dục Mỹ. Hiểu biết về hệ thống giáo dục Mỹ sẽ giúp sinh viên đưa ra được những lựa chọn đúng đắn và phát triển kế hoạch học tập của mình. Hệ thống Giáo dục Bậc Tiểu học và Trung học Trước khi học chương trình giáo dục bậc cao, học sinh Mỹ có 12 năm học tiểu học và trung học, chương trình từ lớp một cho tới lớp mười hai. Khi sáu tuổi, học sinh Mỹ bắt đầu vào học tiểu học. Sau năm hoặc sáu năm tiểu học sẽ tiếp tục học lên trung học. Bậc trung học gồm có hai chương trình một là “trường trung học bậc giữa” hay “trung học cơ sở” và hai là “trường trung học”. Bằng tốt nghiệp sẽ được cấp sau khi tốt nghiệp trung học. Sau khi tốt nghiệp trung học 12 năm, sinh viên Mỹ có thể học lên đại học hoặc cao đẳng. Trường Cao đẳng hoặc Đại học còn được gọi là “giáo dục bậc cao”. Hệ thống Điểm Giống như sinh viên Mỹ, sinh viên quốc tế sẽ phải nộp bảng điểm trong quá trình nộp đơn vào trường cao đẳng hoặc đại học. Bảng điểm là văn bản chính thức kết quả học tập của sinh viên. Tại Mỹ, bảng điểm bao gồm cả “điểm” và “điểm trung bình” GPA, là kết quả học tập sinh viên đạt được. Các khóa học thường được tính điểm theo tỷ lệ phần trăm và sau đó được chuyển đổi ra điểm. Hệ thống điểm và điểm trung bình GPA tại Mỹ có thể không dễ hiểu đặc biệt đối với sinh viên quốc tế. Có nhiều cách giải thích cách tính điểm này. Ví dụ, hai sinh viên học tại hai trường khác nhau cùng nộp bảng điểm cho một trường đại học. Cả hai sinh viên đều có số điểm trung bình là nhưng một sinh viên học trường trung học bình thường và sinh viên kia học trường trung học danh tiếng với nhiều áp lực học tập hơn. Trường đại học có thể diễn giải điểm trung bình GPA của hai sinh viên này khác nhau vì hai trường trung học có tiêu chí hoàn toàn khác nhau. Vì vậy, cần lưu ý một vài điều quan trọng sau Sinh viên nên lựa chọn trường tại Mỹ phù hợp với trình độ học vấn trong nước tại thời điểm tìm trường. Tìm hiểu kỹ yêu cầu tuyển sinh tại trường đại học và cao đẳng cũng như từng chương trình cấp bằng vì có thể có những yêu cầu khác nhau. Thường xuyên liên lạc với tư vấn giáo dục hoặc người hướng dẫn của trường để cập nhật thông tin tuyển sinh. Tư vấn giáo dục hoặc người hướng dẫn sẽ giúp sinh viên biết liệu có cần học một hoặc hai năm trước khi được tuyển vào đại học hay không. Nếu sinh viên quốc tế học đại học tại Mỹ trước khi đủ điều kiện học đại học trong nước thì chính quyền và nhà tuyển dụng ở một số nước sẽ không chấp nhận kết quả học tập tại Mỹ. Lịch học Lịch học thường bắt đầu vào tháng Tám và tháng Chín và tiếp tục vào tháng Năm hoặc tháng Sáu. Phần lớn học sinh bắt đầu học vào mùa thu vì vậy sinh viên quốc tế cũng nên bắt đầu học vào thời điểm này. Có nhiều điều thú vị khi bắt đầu một năm học mới, sinh viên có thể kết bạn với nhau vào lúc này khi tất cả cùng bắt đầu cuộc sống mới trong giảng đường đại học. Ngoài ra, sinh viên có thể học nhiều khóa học, bắt đầu từ tháng Tám và liên tục trong cả năm. Ở một số trường, năm học gồm có hai kỳ hay còn gọi là “semesters.” Một vài trường có lịch học ba kỳ, hay còn gọi là “trimester” Ngoài ra, có một số trường theo hệ thống quý gồm bốn kỳ, bao gồm cả kỳ mùa hè không bắt buộc. Thông thường, nếu không tính kỳ mùa hè, một năm học sẽ gồm có hai semester hoặc ba quarter. Hệ thống Giáo dục Bậc cao tại Mỹ Cấp Bậc Học Cấp bậc đầu tiên Đại Học Sinh viên học cao đẳng hoặc đại học và chưa lấy bằng cử nhân, thì đang học tại bậc đại học. Thường sinh viên mất bốn năm để lấy bằng cử nhân. Sinh viên có thể bắt đầu học lấy bằng cử nhân qua trường cao đẳng cộng đồng hoặc trường đại học bốn năm. Hai năm đầu, sinh viên sẽ phải học rất nhiều khóa học khác nhau, thường được biết đến như các khóa học cơ bản văn học, khoa học, khoa học xã hội, nghệ thuật, lịch sử và nhiều môn học khác. Điều này giúp sinh viên tích lũy kiến thức nền tảng chung phong phú trước khi tập trung học môn chính. Nhiều sinh viên lựa chọn học tại trường cao đẳng cộng đồng để hoàn thành hai năm đầu chương trình học cơ bản. Sinh viên sẽ lấy bằng chuyển tiếp Associate of Arts AA sau đó chuyển tiếp lên trường đại học hoặc cao đẳng hệ bốn năm. “Môn chính” là ngành học mà sinh viên lựa chọn. Ví dụ, ngành học chính của sinh viên là báo chí, sinh viên sẽ lấy bằng cử nhân báo chí. Sinh viên sẽ phải học một vài khóa học bắt buộc cho ngành học để đáp ứng yêu cầu của ngành đó. Sinh viên phải lựa chọn ngành học chính khi bắt đầu học năm thứ ba tại trường. Một đặc điểm riêng của hệ thống giáo dục bậc cao của Mỹ là sinh viên có thể thay đổi ngành học chính bất cứ lúc nào. Việc thay đổi ngành học chính khi học đại học là hoàn toàn bình thường đối với sinh viên Mỹ. Thường sinh viên sẽ phát hiện một ngành nào đó họ xuất sắc hoặc thích thú. Hệ thống giáo dục Mỹ rất linh hoạt. Cần lưu ý là thay đổi ngành học cũng đồng nghĩa với việc phải học nhiều môn hơn, tốn nhiều thời gian và chi phí hơn. Cấp bậc thứ hai Sau Đại học lấy bằng Thạc sỹ Hiện nay, sinh viên tốt nghiệp đại học với tấm bằng cử nhân có thể thực sự muốn học lên cao học để nâng cao trình độ và phát triển nghề nghiệp. Bằng cấp này là cần thiết cho các vị trí chủ chốt trong khoa học thư viện, kỹ thuật, hành vi sức khỏe và giáo dục. Ngoài ra, sinh viên quốc tế ở một số nước chỉ được chấp nhận học ở nước ngoài ở cấp cao học. Sinh viên nên tìm hiểu thông tin liệu có cần kinh nghiệm làm việc ở trong nước trước khi nộp đơn học cao học ở Mỹ. Chương trình cao học thường do một phòng ban ở trường đại học quản lý riêng. Để được nhận học, sinh viên cần phải có điểm GRE graduate record examination. Chương trình cao học khác có thể yêu cầu các bài kiểm tra khác như LSAT khi nộp đơn vào trường luật, GRE hay GMAT cho trường đào tạo kinh doanh, và MCAT cho trường y. Các chương trình cao học lấy bằng Thạc sỹ thường hoàn thành trong vòng một hoặc hai năm. Ví dụ, chương trình MBA thạc sỹ quản trị kinh doanh là một chương trình phổ biến thường hoàn thành trong hai năm. Các chương trình thạc sỹ khác như báo chí, chỉ yêu cầu một năm. Phần lớn chương trình thạc sỹ được giảng dạy trong lớp học và sinh viên cao học phải viết bài nghiên cứu dài gọi là “bài luận thạc sỹ” hoặc hoàn thành một “dự án thạc sỹ”. Cấp bậc thứ ba Sau đại học lấy bằng Tiến sỹ Nhiều trường coi bằng thạc sỹ là bước khởi đầu trước khi học lên bằng PhD tiến sỹ. Nhưng tại nhiều trường khác, sinh viên có thể học thẳng lên bằng tiến sỹ mà không cần có bằng thạc sỹ. Để lấy bằng tiến sỹ, sinh viên phải dành ba năm hoặc nhiều hơn. Sinh viên quốc tế có thể dành năm đến sáu năm để hoàn thành bằng tiến sỹ. Trong hai năm đầu của chương trình, hầu hết sinh viên học tiến sỹ sẽ lên lớp và tham dự hội thảo. Ít nhất sẽ dành một năm để nghiên cứu và viết bài luận hoặc luận án. Bài nghiên cứu này phải thể hiện quan điểm, thiết kế hoặc nghiên cứu mới chưa được phát hành trước đây. Luận án tiến sỹ là cuộc thảo luận và tóm tắt những nghiên cứu hiện tại về một chủ đề. Hầu hết các trường ở Mỹ cấp bằng tiến sỹ đều yêu cầu sinh viên có thể đọc hiểu hai ngôn ngữ và dành phần lớn thời gian “tại một nơi” để vượt qua kỳ thi chấp nhận vào chương trình tiến sỹ và kỳ thi hùng biện về đề tài tiến sỹ. Đặc điểm của Hệ Thống Giáo Dục Bậc cao của Mỹ Môi trường lớp học Lớp học có thể có quy mô lớn với hàng trăm sinh viên hoặc sĩ số nhỏ và hội thảo thảo luận trong lớp với chỉ một vài sinh viên. Môi trường lớp học tại trường đại học Mỹ rất năng động. Sinh viên sẽ phải chia sẻ kinh nghiệm, tranh luận, tham gia thảo luận trong lớp và thuyết trình trước lớp. Sinh viên quốc tế sẽ nhận thấy đó là những trải nghiệm thú vị nhất trong hệ thống giáo dục Mỹ. Hàng tuần, giảng viên sẽ yêu cầu sinh viên đọc sách giáo khoa và các ấn phẩm khác. Giảng viên sẽ yêu cầu sinh viên cập nhật thông tin qua việc đọc và làm bài tập giúp sinh viên tham gia thảo luận trong lớp và hiểu bài giảng. Một số chương trình cấp bằng cũng yêu cầu sinh viên dành thời gian trong phòng thí nghiệm. Giảng viên là người cho điểm sinh viên tham gia lớp học. Điểm được tính dựa trên Mỗi giảng viên sẽ có yêu cầu khác nhau về đóng góp của sinh viên trong lớp học, nhưng giảng viên khuyến khích sinh viên tham gia thảo luận trong lớp, đặc biệt là các buổi hội thảo trong lớp. Đây là một yếu tố quan trọng để cho điểm sinh viên. Trong quá trình học thường có bài Kiểm tra giữa kỳ. Ngoài ra, sinh viên còn được yêu cầu nộp một hoặc nhiều bài nghiên cứu hoặc báo cáo kỳ, hoặc báo cáo thí nghiệm để đánh giá điểm cuối kỳ. Có thể có bài kiểm tra ngắn hoặc bài đố nhanh. Đôi khi giảng viên sẽ yêu cầu làm bài “đố nhanh” mà không thông báo trước. Các bài kiểm tra dạng này sẽ không chiếm tỷ lệ lớn trong điểm số cuối kỳ, mà chỉ để khuyến khích sinh viên tham gia lớp học và làm bài tập về nhà. Kiểm tra cuối kỳ sẽ được diễn ra vào cuối kỳ học. Tín chỉ Mỗi một môn sẽ tương đương một số lượng tín chỉ nhất định hoặc số giờ tín chỉ. Số tín chỉ này tương đương với số giờ sinh viên lên lớp cho môn học đó mỗi tuần. Một môn học có khoảng bốn đến năm tín chỉ. Chương trình toàn thời gian ở hầu hết các trường có 12 đến 15 giờ tín chỉ bốn hoặc năm môn một học kỳ và sinh viên phải hoàn thành số lượng tín chỉ nhất định trước khi tốt nghiệp. Sinh viên quốc tế phải tham gia khóa học toàn thời gian trong suốt học kỳ. Chuyển tiếp Nếu sinh viên đăng ký học một trường khác trước khi tốt nghiệp, số tín chỉ mà sinh viên đã học tại trường đại học đầu tiên sẽ được tính vào số điểm tại trường đại học giúp hoàn thành chương trình học. Điều đó có nghĩa là sinh viên có thể chuyển tiếp sang trường khác mà vẫn tốt nghiệp đúng thời gian. Các hình thức giáo dục bậc cao tại Mỹ 1. Trường Cao đẳng và Đại học công lập Trường cao đẳng, đại học của bang được hỗ trợ và điều hành bởi chính quyền địa phương hoặc bang. Mỗi bang trong số 50 bang của Mỹ có ít nhất một trường đại học công lập và nhiều trường cao đẳng bang. Nhiều trong số các trường đại học công lập này có tên của bang, hoặc từ “bang” trong tên trường ví dụ, Trường Đại Học bang Washington và Trường Đại Học Michigan. 2. Trường Cao đẳng hoặc Đại học tư Các trường này được tư nhân điều hành thay vì cơ quan chính quyền bang. Học phí của các trường tư thường sẽ cao hơn học phí trường công lập. Thường trường tư sẽ có quy mô nhỏ hơn so với trường công lập. Các trường cao đẳng và đại học liên kết với tôn giáo là các trường đại học tư. Thông thường các trường đại học này sẽ tiếp nhận sinh viên từ tất cả các tôn giáo khác nhau. Tuy nhiên, có một số ít trường muốn tiếp nhận sinh viên theo học có cùng tôn giáo với trường. 3. Trường Cao đẳng Cộng đồng Trường cao đẳng cộng đồng hệ hai năm cấp bằng associate có thể chuyển tiếp và các chứng chỉ. Có nhiều loại bằng associate, nhưng điều khác biệt quan trọng nhất là bằng đó có thể chuyển tiếp được hay không. Thường thì có hai loại bằng chính một là bằng chuyển tiếp lên đại học và hai là chứng chỉ giúp sinh viên bắt đầu làm việc. Bằng chuyển tiếp lên đại học thường là bằng associate nghệ thuật hoặc bằng associate khoa học. Bằng mà không chuyển tiếp được là bằng associate khoa học ứng dụng và chứng nhận hoàn thành chương trình. Sinh viên tốt nghiệp trường cao đẳng cộng đồng phần lớn chuyển tiếp lên trường cao đẳng hoặc đại học hệ bốn năm. Vì sinh viên có thể chuyển điểm từ trường cao đẳng cộng đồng, sinh viên có thể hoàn thành lấy bằng cử nhân trong vòng hai năm tiếp theo hoặc hơn. Nhiều trường cũng có chương trình anh ngữ hoặc chương trình tiếng Anh chuyên sâu giúp sinh viên chuẩn bị vào học đại học. Nếu sinh viên không có kế hoạch học lên đại học, sinh viên có thể tìm việc tại quê nhà với tấm bằng associate của trường. 4. Học viện Công nghệ Học viện công nghệ là trường đại học hệ bốn năm chuyên về khoa học và công nghệ. Một số trường có chương trình cao học hoặc các khóa đào tạo ngắn hạn. “Tôi thích vì lịch học linh hoạt, lớp học vui và tôi có thể tham gia nhiều hoạt động.” Trích dẫn lời của Xujie Zhao, từ Trung Quốc Học quản trị mạng tại Học viện Công nghệ Wentworth. Theo chúng tôi

tìm hiểu về nền giáo dục mỹ